Chim Việt Cành Nam          [  Trở Về   ]

Khoa Cử Việt Nam - THI HỘI THI ĐÌNH
-
PHẦN II - THI ĐÌNH

CHƯƠNG TÁM (tiếp)

Phụ lục
-
Nguyễn Thị Chân Quỳnh

NGHI THỨC BAN MŨ ÁO CHO CÁC TIẾN SĨ THỜI LÊ
Vua ngự lên ngai. Vút roi. Nhạc tấu khúc Văn quang. Cáp môn xướng :"Bài ban, ban tề, cúc cung bái (5 lạy 3 bái), hưng, bình thân !". Các quan chia ban đứng hầu. Cáp môn xướng :"Tấu sự !". Quan Lễ bộ đến giữa ngự đạo quỳ xuống, bốn viên Tự ban, hai viên mang mũ áo đai để trên án, hai viên dẫn các Tiến sĩ đến giữa ngự đạo quỳ xuống. Quan Lễ bộ tâu xin đem ra ngoài cửa Ðoan-môn để ban phát, tâu xong lui ra. Tự ban xướng :"Khấu đầu !". Các Tiến sĩ đều cúi đầu vái. Bốn viên Tự ban, hai viên dẫn các Tiến sĩ từ cửa bên tả đi ra, hai viên bưng mũ áo đai từ cửa bên hữu đi ra. Nghi chế ty đến giữa ngự đạo quỳ tâu :"Lễ tất !". Vua về cung. Các quan lần lượt lui ra. Tự ban dẫn các Tiến sĩ ra giữa ngự đạo ngoài cửa Ðoan-môn, xướng :"Quỵ !". Lại xướng :"Khấu đầu !". Các Tiến sĩ đều cúi đầu vái, vẫn quỳ. Quan Lễ bộ ban mũ áo đai xong, các Tiến sĩ sang phía đông mặc áo; đóng đai, đội mũ. Tự ban dẫn các Tiến sĩ đến giữa ngự đạo. Cáp môn xướng :"Cúc cung bái (5 lạy 3 vái), hưng, bình thân !". Các Tiến sĩ lại đến điện Thái miếu làm lễ 5 lạy 3 vái. Thế là xong.
 
Phan Huy Chú, Khoa Mục Chí
NGHI THỨC BAN YẾN CHO CÁC CÁC TIẾN SĨ THỜI LÊ
Ngày hôm ấy Thái quan (giữ việc cỗ bàn) bầy cỗ yến ở công đường Lễ bộ. Quan Lễ bộ trước hết phải làm lễ vọng bái Vua (5 lễ 3 vái). Lại cúc cung 4 lạy bái vọng Chúa. Cáp môn xướng :"Bài ban, ban tề !". Tự ban dẫn các Tiến sĩ vào. Cáp môn lại xướng :"Bài ban, ban tề, cúc cung bái (5 lạy 3 vái), hưng, bình thân !" rồi lui ra. Vào ăn yến. Các viên Cáp môn, Tự ban cũng dự yến. Yến xong, Cáp môn lại xướng như trước. Lễ tất.
Phan Huy Chú, Khoa Mục Chí
XÓM NGỰ VIÊN
Xóm Ngự viên ở cạnh đường Gia Hội (Huế)
ngày xưa là khu vườn Thượng uyển
Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự viên.
Giậu đổ, dây leo, suồng sã quá !
Hoa tàn, con bướm cánh nghiêng nghiêng.
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá,
Xóm vắng, rêu xanh, những lối hèn !
Khách du lần giở trang hoài cổ,
Mơ lại thời xưa xóm Ngự viên.

Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây hoa cỏ giống vườn tiên ?
Sớm Ðào, trưa Lý, đêm Hồng Phấn,
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Ðỗ Quyên.
Ðức vua một sớm đầu xuân ấy
Lòng đẹp theo giời, dạo Ngự viên.
Cung tần, mỹ nữ, ngời son phấn,
Theo gót nhà vua nở gót sen.
Hương đưa bát ngát ngoài trăm dậm,
Cung nữ đa tình, vua thiếu niên.
Một đôi công chúa đều hay chữ,
Hoàng hậu nhu mì, không biết ghen.
Ðất rộng can chi mà đổi chác,
Thời bình đâu dụng chước hòa Phiên ?
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện :"Hô lai bất thượng thuyền".

Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên ?
Gót sen bước nhẹ lầu Tôn nữ,
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên.
Mười năm vay mượn vào kinh sử
Ðã giả xong rồi, nợ bút nghiên !
Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến,
Ði xem hoa nở mấy hôm liền.
Ðường hoa, má phấn tranh nhau ngó,
Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên.
Thắp hương, Tôn nữ xin Giời Phật :
"Phù hộ cho con được phỉ nguyền".
Lòng Trạng lâng lâng mầu phú quý,
Quả cầu nho nhỏ, bói lương duyên.
Tay ai ấy nhỉ, gieo cầu đấy ?
Nghiêng cả mùa xuân, Trạng ngước nhìn.
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo,
Có người đêm ấy khóc giăng lên !
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc,
Chẳng Tống Trân ư, cũng Nguyễn Hiền !

Khách du buồn mối buồn sông núi,
Núi lở, sông bồi, cảnh biến thiên !
Ngự viên ngày trước không còn nữa,
Giờ chỉ còn tên : "Xóm Ngự viên".

Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng,
Giời đem hoa cỏ giả vườn tiên !
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo,
Dân thường qua lại, lối đi quen.
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm,
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men.
Mụ vợ Bắc Nam người tứ xứ,
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen.
Ðổi thay tình nghĩa như cơm bữa,
Khúc Hậu Ðình Hoa hát tự nhiên.
Nhọc nhằn tiếng cú trong canh vắng,
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn...

Hôm nay có một người du khách,
Ở Ngự viên mà nhớ Ngự viên !

Huế, tháng 9/1941
Nguyễn Bính, Chân Quê

Nguyễn Bính (1919-66) tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh và mất tại Nam-định, tham gia kháng chiến. Làm thơ từ năm 13 tuổi, lời mộc mạc nhưng vẫn tân kỳ, phảng phất có phong vị ca dao. Tác phẩm :Tâm Hồn Tôi (giải khuyến khích Tự Lực Văn Ðoàn năm 1937), L" bước sang ngang (1940), 1000 cửa sổ (1941), Hương Cố Nhân (1941), Người con gái ở lầu hoa (1942), 12 bến nước (1942), Mây Tần (1942), Ông lão mài gươm (1947), Ðồng Tháp Mười (1955), Gửi vợ miền Nam (1955), Tình nghĩa đôi ta (1960 v.v... Một số bài thơ được phổ nhạc : "Cô hái mơ", "Cô lái đò"...


Món Long : Đầu rồng làm bằng carotte, vẩy bằng đu đủ tỉa hoa trắng 
thái mỏng xếp chồng lên nhau, đuôi là dưa chuột thái xoè cánh quạt.
Món Ly : Đầu và đuôi làm bắng cuống dứa xanh, 
mình là mực chiên xù cắm lên quả dứa
Món Quy : Đàu rùa bằng carotte đính hai hạt tiêu đen làm mắt, 
lưng rùa làm cơm rang trên bày carotte thái chỉ xếp tréo
Món phụng : Đầu và cổ tỉa bằng củ cải trắng, 
mào và mỏ bằng ớt và carotte đỏ, hai hạt tiêu đen làm mắt
Y (mặt trước)
Y (mặt sau)
Thường (mặt trước)
Thường (mặt sau)
MŨ THƯỜNG TRIỀU QUAN VĂN TỪ TỨ PHẨM ĐẾN THẤT PHẨM (ĐÔNG PHA QUAN)
Mũ (mặt trước)
Mũ (mặt sau)